053.3 Bài 1
Chứng chỉ: |
Open Source Essentials |
---|---|
Phiên bản: |
1.0 |
Chủ đề: |
053 Giấy phép dành cho Nội dung Mở |
Mục tiêu: |
053.3 Các Giấy phép dành cho Nội dung Mở khác |
Bài học: |
1 trên 1 |
Giới thiệu
Các bài học trước đã giới thiệu về khái niệm nội dung mở và tập trung vào các giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng. Tuy nhiên, ngoài các giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng, chúng ta còn có các giấy phép dành cho nội dung mở khác, một số trong đó có liên quan đến các dạng nội dung cụ thể và cũng thường xuyên được sử dụng cho các “sản phẩm phụ” (chẳng hạn như tài liệu) của các dự án mã nguồn mở.
Giấy phép dành cho Tài liệu (của Phần mềm)
Ngoài bản thân mã, các kho lưu trữ phần mềm lớn thường có chứa cả các tài liệu hoặc hướng dẫn sử dụng phần mềm. Các tài liệu này thường chứa nhiều yếu tố có bản quyền khác nhau như văn bản giải thích, đồ họa minh họa hoặc ví dụ về mã. Các giấy phép mã nguồn mở áp dụng cho nội dung của một kho lưu trữ thường cũng được áp dụng cho các văn bản đó (nếu không có thông tin nào khác đi kèm). Ví dụ: GPLv3.0 áp dụng cho “bất kỳ một tác phẩm có bản quyền nào” và không chỉ giới hạn ở mã.
Tuy nhiên, các tài liệu thường sẽ phải tuân theo các điều kiện cấp phép khác nhau. Có nhiều lý do cho việc này vì tài liệu được tạo ra và sử dụng theo các cách khác so với mã. Ví dụ: các điều kiện cấp phép nghiêm ngặt của một giấy phép copyleft mạnh dành cho các chương trình máy tính có thể sẽ ngăn cản việc áp dụng các phần riêng lẻ của tài liệu cho các chương trình khác. Ý nghĩa của việc “mã nguồn” được cung cấp cho tài liệu được cấp phép GPLv3.0 cũng chưa được rõ ràng. Ngoài ra, việc phân phối các phiên bản in của tài liệu hoặc sách hướng dẫn cho các chương trình vốn là thông lệ đã có từ lâu. Trong trường hợp này, sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta tính đến các giấy phép cụ thể dành cho tài liệu (ví dụ như khi một số nghĩa vụ cấp phép có quan hệ mật thiết với số lượng bản sao được phân phối nhất định).
Các giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng thường được sử dụng cho tài liệu; tuy nhiên, chúng ta cũng có các giấy phép copyleft đặc biệt dành cho tài liệu, chẳng hạn như Giấy phép Tài liệu Miễn phí (FDL) đã giải thích mục đích của chính nó ngay trong lời mở đầu:
Mục đích của Giấy phép này là tạo ra một cuốn sổ tay, sách giáo khoa hoặc các tài liệu hữu ích và có chức năng khác theo nghĩa “tự do”: đảm bảo cho mọi người quyền tự do hiệu quả để sao chép và tái phân phối nó, có hoặc không có sửa đổi, cả với mục đích thương mại lẫn phi thương mại. Thứ hai, Giấy phép này giữ cho tác giả và nhà xuất bản một phương thức để được ghi nhận công sức đối với tác phẩm của họ trong khi không phải chịu trách nhiệm về những sửa đổi do người khác thực hiện.
Giấy phép này là một loại giấy phép "copyleft", có nghĩa là bản thân các sản phẩm phái sinh của tài liệu đó cũng phải tự do theo ý nghĩa tương tự. Nó bổ sung cho Giấy phép Công cộng Chung GNU — một giấy phép copyleft được thiết kế dành cho phần mềm tự do.
Chúng tôi đã thiết kế Giấy phép này để sử dụng nó cho các sản phẩm sách hướng dẫn sử dụng cho phần mềm tự do vì phần mềm tự do cũng cần phải đi kèm với tài liệu tự do: một chương trình tự do phải đi kèm với các sách hướng dẫn cung cấp các quyền tự do giống với phần mềm. Nhưng Giấy phép này không giới hạn ở các sản phẩm hướng dẫn sử dụng phần mềm; nó có thể được sử dụng cho bất kỳ sản phẩm văn bản nào, bất kể chủ đề của nó là gì hay liệu nó có được xuất bản dưới dạng sách in hay không. Chúng tôi đề xuất Giấy phép này sử dụng chủ yếu cho các tác phẩm có mục đích hướng dẫn hoặc tham khảo.
Preamble
Giấy phép này rất sát sao đối với các sản phẩm tài liệu (ví dụ ngay ở việc nó cũng đề cập đến cản các phiên bản in). Đặc biệt, một giấy phép tài liệu copyleft sẽ không ảnh hưởng một cách rõ rệt đến mã mà nó được phân phối cùng. Mặc dù cũng có thể phân phối tài liệu theo GPLv3.0 cùng với mã được MIT cấp phép: vì trong trường hợp này có hai sản phẩm độc lập nên giấy phép GPLv3.0 của tài liệu sẽ không dẫn đến việc mã phải được cấp phép theo GPLv3.0. Tuy nhiên, một giấy phép dành riêng cho tài liệu sẽ khiến phương diện này trở nên rõ ràng hơn.
Giấy phép dành cho Cơ sở Dữ liệu
Ngoài ra, chúng ta còn có các giấy phép đặc biệt dành cho các cơ sở dữ liệu. Bên cạnh nhiều vấn đề khác, các giấy phép này còn tính đến việc sử dụng một cơ sở dữ liệu làm tài nguyên cho một chương trình và các tính năng đặc biệt về bảo vệ bản quyền cho cơ sở dữ liệu.
Thuật ngữ “Cơ sở dữ liệu” được áp dụng như thế nào?
Trong luật bản quyền, một số hệ thống pháp luật (kể cả ở Châu Âu) có sự phân biệt giữa các sản phẩm cơ sở dữ liệu — giống như các tác phẩm được bảo vệ bản quyền khác (hình ảnh, văn bản, v.v.) — được hưởng sự bảo vệ trên cơ sở sáng tạo trí tuệ cá nhân (chọn lọc và sắp xếp các thành phần) và cơ sở dữ liệu mà việc sản xuất (mua sắm, xác minh, trình bày) cần tới một khoản đầu tư đáng kể (quyền cơ sở dữ liệu).
Trong cả hai trường hợp, đối tượng bảo hộ là một tập hợp các yếu tố độc lập (chẳng hạn như các tác phẩm hoặc hạng mục dữ liệu riêng biệt) được sắp xếp một cách có hệ thống hoặc có phương pháp và có thể được truy cập điện tử riêng lẻ hoặc bằng các phương tiện khác. Khả năng bản quyền của bản thân các phần tử không quá quan trọng nên chúng cũng có thể chỉ là các giá trị số học.
Do đó, một bộ sưu tập dữ liệu có thể được bảo vệ bản quyền dưới dạng sản phẩm cơ sở dữ liệu hoặc theo quyền cơ sở dữ liệu (ở châu Âu). Để một sản phẩm cơ sở dữ liệu được bảo vệ, việc sắp xếp, lựa chọn các thành phần phải thể hiện sự sáng tạo trí tuệ của cá nhân. Điều này khó có thể xảy ra đối với các bộ sưu tập dữ liệu được sử dụng làm cơ sở cho phần mềm - nhưng chúng lại có thể được bảo vệ theo quyền cơ sở dữ liệu. Để có được quyền này, tác giả cần phải đầu tư đáng kể vào việc thu thập và sắp xếp các thành phần. Khoản đầu tư này cũng có thể bao gồm cả thời gian và nguồn nhân lực.
Hiện có nhiều giấy phép khác nhau dành cho cơ sở dữ liệu và bộ sưu tập dữ liệu bao quát việc sử dụng dữ liệu tốt hơn các giấy phép phần mềm mã nguồn mở “cổ điển”. Chúng ta hãy cùng xem sự khác biệt thông qua một ví dụ.
Là một phần của dự án nghiên cứu học thuật, tất cả các bài thơ của một tác giả sẽ được sưu tầm và phát hành trên một trang web nơi chúng được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái theo tiêu đề và có thể được truy cập riêng lẻ. Tuy nhiên, dự án yêu cầu rằng bản quyền liên quan đến việc phân phối và sao chép các bài thơ phải được lấy từ tác giả. Phí cấp phép sẽ được trả cho việc này.
Phí cấp phép có thể cấu thành một “khoản đầu tư đáng kể.” Vì các bài thơ có thể được truy xuất riêng lẻ và được sắp xếp một cách có hệ thống (theo bảng chữ cái) nên cơ sở dữ liệu phục vụ các bài thơ có thể được bảo vệ theo quyền cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, các thành phần (các bài thơ) không được lựa chọn một cách cụ thể (việc lựa chọn được thực hiện trên cơ sở hoàn thiện) và sự sắp xếp không mang tính sáng tạo mà hoàn toàn mang tính hệ thống. Do đó, không có sự sáng tạo trí tuệ cá nhân liên quan đến cơ sở dữ liệu; vậy nên cơ sở dữ liệu này không đủ tiêu chuẩn để được coi là một sản phẩm cơ sở dữ liệu.
Mặt khác, nếu các bài thơ được sắp xếp và lựa chọn theo những tiêu chí nhất định - chẳng hạn như ghi lại những mô típ nhất định trong tác phẩm của tác giả trong giai đoạn sáng tạo - thì tức là có thể tồn tại một sản phẩm sáng tạo trí tuệ cá nhân, và từ đó tuyển tập thơ này sẽ được bảo hộ như một sản phẩm cơ sở dữ liệu.
Tuy nhiên, hai thể loại này được xử lý khác nhau theo luật bản quyền, đặc biệt là về thời hạn bảo vệ: cơ sở dữ liệu theo quyền cơ sở dữ liệu chỉ được bảo vệ 15 năm sau khi sản xuất/phát hành, trái ngược với thời hạn 70 năm sau khi tác giả qua đời đối với các sản phẩm cơ sở dữ liệu.
Phân định Dữ liệu
Dữ liệu trong cơ sở dữ liệu (trong ví dụ của chúng ta là các bài thơ) phải luôn được xem xét một cách tách biệt khỏi tổng thể cơ sở dữ liệu vì chúng có thể (nhưng không nhất thiết) đủ điều kiện để được bảo vệ theo quyền riêng của chúng và do đó có thể sẽ phải tuân theo các điều kiện cấp phép khác nhau. Ví dụ: tuyển tập thơ có thể sẽ phải tuân theo Giấy phép Cơ sở dữ liệu Mở (xem ở bên dưới) trong khi các bài thơ riêng lẻ lại phải tuân theo giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng hoặc một giấy phép độc quyền.
Chính sách Phân định dành cho Hệ thống Quản lý Cơ sở Dữ liệu (DBMS)
Ngoài ra, phần mềm quản lý dữ liệu (hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu hay DBMS) không được coi là một phần của cơ sở dữ liệu theo luật bản quyền; nó được coi là một phương tiện truy cập dữ liệu phải được xem xét riêng theo luật bản quyền. Các ứng dụng như vậy — chẳng hạn như MySQL, PostgreSQL, MariaDB, v.v. — phải được xem xét một cách riêng biệt và được bảo vệ như các chương trình máy tính.
Bộ dữ liệu Đào tạo Mô hình Học Máy
Chúng ta có thể tải xuống nhiều bộ sưu tập dữ liệu khác nhau từ các trang web như hugface.co hoặc kaggle.com để đào tạo các mô hình học máy. Các bộ sưu tập như vậy (còn được gọi là bộ dữ liệu hay datasets) thường tuân theo quyền cơ sở dữ liệu với điều kiện là đã có một “khoản đầu tư đáng kể” được đưa vào trong quá trình sản xuất của chúng (thường không dễ thấy được từ bên ngoài).
Thuật ngữ “bộ dữ liệu” có phần hơi mơ hồ vì nó có thể chỉ ám chỉ tới một dòng trong cơ sở dữ liệu — tức là một mục nhập hoặc một phần tử có thể xác định — hoặc ám chỉ tới các tập hợp dữ liệu hoặc các bộ dữ liệu.
Giấy phép Cơ sở Dữ liệu Mở (ODbL)
Những sự khác biệt này cũng có thể thấy rõ trong Giấy phép Cơ sở Dữ liệu Mở (ODbL) được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực cơ sở dữ liệu. ODbL được phát triển bởi Dữ liệu Chung (Open Data Commons) - một dự án của Tổ chức Tri thức Mở (Open Knowledge Foundation). Ngay trong phần mở đầu, giấy phép này đã phân biệt rõ ràng giữa việc bảo vệ cơ sở dữ liệu và việc bảo vệ nội các dung riêng lẻ của cơ sở dữ liệu. Giấy phép chỉ đề cập đến việc bảo vệ cơ sở dữ liệu, còn phần nội dung cũng có thể được cấp phép hoàn toàn độc lập với cơ sở dữ liệu.
Tất nhiên, chúng ta vẫn có thể chọn cùng một giấy phép cho cơ sở dữ liệu và nội dung (ví dụ như khi chúng ta biên soạn một bộ sưu tập các tác phẩm được cấp phép theo CC-BY-4.0 trong một cơ sở dữ liệu cũng được cấp phép theo CC-BY-4.0).
Giấy phép tốt nhất dành cho một cơ sở dữ liệu phụ thuộc vào mục tiêu của nhà sản xuất cơ sở dữ liệu. Để tiếp tục với ví dụ về tập thơ của chúng ta: nếu để cơ sở dữ liệu thơ được sửa đổi theo ý muốn và cũng có thể được phân phối theo các điều kiện cấp phép khác thì ODbL sẽ không phải là một lựa chọn phù hợp. Điều này là do ODbL có chứa quyền copyleft cho cơ sở dữ liệu — tức là một cơ sở dữ liệu bắt nguồn từ cơ sở dữ liệu được cấp phép ODbL (ví dụ: một cơ sở dữ liệu áp dụng tất cả các thành phần và mẫu sắp đặt các thành phần của cơ sở dữ liệu gốc và thêm các thành phần khác) chỉ có thể được tái phân phối theo cùng các điều kiện. Trong trường hợp này, một giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng có quyền chỉnh sửa/ biên tập (ví dụ như CC-BY) là một lựa chọn tốt hơn.
ODbL cũng nêu rõ rằng giấy phép này không áp dụng cho các chương trình máy tính quản lý cơ sở dữ liệu (tức là DBMS) theo bất kỳ một cách nào: “Giấy phép này không áp dụng cho các chương trình máy tính được sử dụng để tạo hoặc vận hành Cơ sở Dữ liệu.”
Tuy nhiên, giấy phép quy định rằng một tác phẩm được tạo ra từ nội dung của cơ sở dữ liệu và có sẵn cho tất cả mọi người sử dụng (cái được gọi là sản phẩm chế tạo) ít nhất phải chỉ ra được rằng cơ sở dữ liệu nào (không phải DBMS) được sử dụng cho tác phẩm đó và bản thân cơ sở dữ liệu đó có thể được sử dụng theo các điều kiện của ODbL. Một ví dụ về sản phẩm chế tạo chính là bản đồ đường phố được tạo ra từ các tọa độ được thu thập trong cơ sở dữ liệu.
Nếu một trong những giấy phép copyleft đã biết (dành riêng cho phần mềm) như GPLv3.0 được sử dụng cho cơ sở dữ liệu, chúng ta có thể hiểu rằng một chương trình máy tính sử dụng cơ sở dữ liệu (ví dụ như cho một hệ thống lưu trữ) chỉ có thể được phân phối theo các điều khoản của GPLv3.0. Mặt khác, giấy phép của DBMS có khả năng độc lập với giấy phép của cơ sở dữ liệu vì DBMS không được coi là một “sản phẩm phái sinh” của cơ sở dữ liệu; nó chỉ cho phép truy cập và chỉnh sửa và vì thế nên nó là một sản phẩm độc lập.
Thỏa thuận Cấp phép Dữ liệu Cộng đồng (CDLA)
Thỏa thuận Cấp phép Dữ liệu Cộng đồng (CDLA) là một dự án của Tổ chức Linux tập trung vào việc cấp phép dữ liệu (khác với phần mềm). Việc thu thập dữ liệu đào tạo cho các hệ thống học máy cũng thuộc phạm vi chủ đề của CDLA.
Các cộng đồng của chúng tôi muốn phát triển các thỏa thuận cấp phép dữ liệu có thể cho phép chia sẻ dữ liệu tương tự như những gì chúng tôi đã làm với phần mềm mã nguồn mở. Kết quả sẽ chính là sự hợp tác trên quy mô lớn về các giấy phép chia sẻ dữ liệu theo khuôn khổ pháp lý mà chúng tôi gọi là Thỏa thuận Cấp phép Dữ liệu Cộng đồng (CDLA).
Các giấy phép này sẽ thiết lập nên một khuôn khổ cho việc chia sẻ dữ liệu cộng tác mà chúng tôi đã chứng minh là có hiệu quả trong các cộng đồng phần mềm mã nguồn mở.
Do đó, CDLA được dựa trên một khuôn khổ tính đến các cấp độ khác nhau của các vấn đề cấp phép, đặc biệt là khi dữ liệu được biên soạn từ nhiều nguồn bởi nhiều nhà phát triển đóng góp khác nhau. Trong ví dụ của chúng ta, đây có thể là một bộ sưu tập mà trong đó, các tác giả khác nhau đóng góp những bài thơ của riêng họ để xây dựng nên một cơ sở dữ liệu thơ chung.
CDLA phân biệt giữa “cấp phép vào” (inbound) cho dữ liệu được thêm vào bộ sưu tập và “cấp phép ra” (outbound) cho việc sử dụng dữ liệu. Ở một cấp độ khác, nó chỉ định các yêu cầu đối với tổ chức lưu trữ hoặc nắm giữ dữ liệu.
Để tiếp tục với ví dụ về các bài thơ: một tác giả muốn đóng góp bài thơ của mình sẽ được hướng dẫn chi tiết bởi các “giấy phép vào”. “Giấy phép ra” sẽ liên quan đến những điều kiện mà các biên tập viên của toàn bộ tập thơ đã thỏa thuận với nhau.
Tương tự như các giấy phép mã nguồn mở dành cho phần mềm, CDLA cũng có sẵn các danh mục linh hoạt và chia sẻ mà chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một cách ngắn gọn sau đây. Hãy truy cập vào các trang web kaggle.com hoặc kissingface.co đã được đề cập tới ở trên để có thể hiểu một cái nhìn cơ bản về các giấy phép được sử dụng cho cơ sở dữ liệu hoặc tập dữ liệu. Ví dụ: bạn có thể sử dụng bộ lọc để tìm ra các bộ sưu tập dữ liệu được cung cấp theo CDLA.
Thỏa thuận Cấp phép Dữ liệu Cộng đồng — Linh hoạt
Phiên bản 2.0 của CDLA linh hoạt đã có từ năm 2021; nó ngắn gọn và rõ ràng hơn nhiều so với phiên bản 1.0.
Phiên bản 1.0 cấp quyền sử dụng và xuất bản dữ liệu được cấp phép, bao gồm cả việc xuất bản “dữ liệu nâng cao” (có bao gồm các chỉnh sửa hoặc bổ sung vào bộ dữ liệu). Khi chuyển giao hoặc phát hành dữ liệu, người dùng sẽ phải tuân thủ các nghĩa vụ cấp phép cơ bản; bên cạnh các nghĩa vụ khác, người dùng sẽ phải chuyển giao văn bản cấp phép, đánh dấu các thay đổi và giữ lại thông báo bản quyền. Dữ liệu cũng có thể được chuyển giao theo các điều kiện cấp phép bổ sung hoặc các điều kiện cấp phép khác.
Trong phiên bản 2.0, cụm từ “dữ liệu nâng cao” không còn được sử dụng nữa; thay vào đó, việc cấp quyền đã được diễn đạt một cách chính xác hơn:
Người nhận dữ liệu có thể sử dụng, sửa đổi và chia sẻ Dữ liệu do Nhà cung cấp dữ liệu cung cấp theo thỏa thuận này nếu Người nhận dữ liệu đó tuân thủ các điều khoản của thỏa thuận này.
version 2.0
Điều kiện duy nhất để chia sẻ dữ liệu trong phiên bản 2.0 là phải chuyển tiếp văn bản giấy phép hoặc một liên kết đến văn bản giấy phép.
Thỏa thuận Cấp phép Dữ liệu Cộng đồng — Chia sẻ
Phiên bản chia sẻ của CDLA (hiện chỉ có trong phiên bản 1.0) có chứa một quyền copyleft cho dữ liệu — tức là việc chuyển giao (“phát hành”) “dữ liệu nâng cao” chỉ có thể được cho phép trong cùng các điều kiện.
Dữ liệu (bao gồm cả Dữ liệu nâng cao) phải được phát hành theo Thỏa thuận này và tuân thủ theo Mục 3 này;
version 1.0
Truy cập Mở
Một thuật ngữ thường được sử dụng liên quan đến nội dung mở là truy cập mở (open access). Mặc dù thuật ngữ này không được định nghĩa pháp lý, tuyên bố của Tổ chức Sáng kiến Truy cập Mở Budapest (BOAI) đã nêu rõ ý định đằng sau truy cập mở. Sáng kiến này xuất phát từ một hội nghị ở Budapest năm 2001 và nó đã tóm tắt những nỗ lực quốc tế dành cho truy cập mở:
Tài liệu cần được truy cập miễn phí trực tuyến là tài liệu mà các học giả cung cấp cho thế giới và không mong đợi nhận được lợi nhuận. Danh mục này ban đầu bao gồm các bài báo trên tạp chí được bình duyệt của họ, nhưng nó cũng bao gồm bất kỳ một bản in trước chưa được bình duyệt nào mà họ có thể muốn đưa lên mạng để nhận được nhận xét hoặc thông báo cho các đồng nghiệp về những phát hiện quan trọng trong nghiên cứu. Có nhiều mức độ và loại quyền truy cập rộng rãi và dễ dàng hơn đối với loại tài liệu này. Khi nói đến “truy cập mở” đối với loại tài liệu này, chúng tôi đang nói đến tính khả dụng miễn phí của nó trên mạng internet công cộng cho phép mọi người dùng bất kỳ đọc, tải xuống, sao chép, phân phối, in, tìm kiếm hoặc liên kết đến toàn văn của các bài viết này, thu thập chúng để lập chỉ mục, chuyển chúng dưới dạng dữ liệu cho phần mềm hoặc sử dụng chúng cho bất kỳ mục đích hợp pháp nào khác mà không có rào cản về tài chính, pháp lý hoặc kỹ thuật nào khác ngoài những rào cản không thể tách rời khỏi việc truy cập vào chính bản thân internet. Hạn chế duy nhất đối với việc sao chép và phân phối cũng như vai trò duy nhất của bản quyền trong lĩnh vực này là trao cho tác giả quyền kiểm soát tính toàn vẹn của tác phẩm của họ và quyền được ghi nhận và trích dẫn đúng cách.
Do vậy, truy cập mở đề cập cụ thể đến quyền truy cập miễn phí vào tài liệu khoa học và các nội dung khác trên internet. Phong trào truy cập mở bắt nguồn từ những năm 1990 với mục đích cung cấp các ấn phẩm khoa học cho công chúng. Do đó, truy cập mở không đề cập đến một giấy phép cụ thể hoặc một số điều kiện cấp phép nhất định; nó là một khái niệm nằm trong việc cấp phép.
Khi một bài viết được xuất bản với quyền truy cập mở, bước đầu tiên là cần chọn một giấy phép nội dung mở (chẳng hạn như một trong các giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng). Tuy nhiên, việc lựa chọn giấy phép CC không phải là một việc bắt buộc đối với quyền truy cập mở. Trải qua nhiều năm, một danh mục các chiến lược truy cập mở khác nhau đã được phát triển, trong đó cũng tính đến việc cấp phép kép — ví dụ: cấp giấy phép toàn diện cho nhà xuất bản và tác giả cũng đồng thời cung cấp nội dung có thể tải xuống trên trang web của riêng họ.
Cả BOAI và Tuyên bố Berlin ra đời hai năm sau đó đều là những cột mốc quan trọng trong phong trào truy cập mở. Phần mở đầu của Tuyên bố Berlin đã nêu rõ:
Theo tinh thần của Tuyên bố Sáng kiến Truy cập Mở Budapest, Hiến chương ECHO và Tuyên bố Bethesda về Xuất bản Truy cập Mở, chúng tôi đã soạn thảo Tuyên bố Berlin nhằm quảng bá Internet như một công cụ chức năng dành cho cơ sở tri thức khoa học toàn cầu và phản ánh hình ảnh của con người; bên cạnh đó, nó cũng nhằm chỉ ra rõ các biện pháp mà các nhà hoạch định chính sách nghiên cứu, các viện nghiên cứu, các cơ quan tài trợ, thư viện, lưu trữ và bảo tàng cần phải xem xét.
Bài tập Hướng dẫn
-
Các giấy phép mã nguồn mở “cổ điển” có thể được sử dụng cho tài liệu và cơ sở dữ liệu không?
Có
Không
Tùy thuộc vào từng trường hợp, không có câu trả lời rõ ràng
-
Việc sử dụng các giấy phép riêng biệt đối với tài liệu liệu có hợp lý không? Tại sao?
-
Việc sử dụng các giấy phép riêng biệt đối với có sở dữ liệu liệu có hợp lý không? Tại sao?
-
Giấy phép nào sau đây phù hợp cho tài liệu?
CC-BY-4.0
FDL
ODbL
GPL-3.0
BSD 3 Điều khoản
-
Thuật ngữ “truy cập mở” mang ý nghĩa gì?
Bài tập Mở rộng
-
Có giấy phép cụ thể nào dành cho phông chữ không?
-
Hãy giải thích ngắn gọn hai chiến lược hoặc mô hình truy cập mở.
-
“Định nghĩa mở” có nghĩa là gì?
Tóm tắt
Ngoài các giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng phổ biến, chúng ta còn có các loại hình cấp phép nội dung khác được thiết kế riêng biệt hơn cho từng loại dữ liệu tương ứng: đối với tài liệu phần mềm hoặc cơ sở dữ liệu, chúng ta có các giấy phép FDL hoặc ODbL có tính đến những đặc điểm của các loại sản phẩm này. Bài học này đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về một số giấy phép này cũng như về khái niệm truy cập mở.
Đáp án Bài tập Hướng dẫn
-
Các giấy phép mã nguồn mở “cổ điển” có thể được sử dụng cho tài liệu và cơ sở dữ liệu không?
Có
X
Không
Tùy thuộc vào từng trường hợp, không có câu trả lời rõ ràng
-
Việc sử dụng các giấy phép riêng biệt đối với tài liệu liệu có hợp lý không? Tại sao?
Có, vì chúng thường chứa cả các nội dung khác ngoài chương trình. Việc quy định cách xử lý bản in của tài liệu chính là một ví dụ.
-
Việc sử dụng các giấy phép riêng biệt đối với có sở dữ liệu liệu có hợp lý không? Tại sao?
Có, vì nó có thể sẽ rất hữu ích. Cụ thể là một giấy phép cơ sở dữ liệu riêng biệt có thể đạt được hiệu ứng copyleft cho cơ sở dữ liệu mà không để copyleft ảnh hưởng đến phần mã xung quanh. Ngoài ra, giấy phép cơ sở dữ liệu sẽ giải quyết các điều khoản cụ thể mà luật bản quyền cung cấp để bảo vệ cơ sở dữ liệu.
-
Giấy phép nào sau đây phù hợp cho tài liệu?
CC-BY-4.0
X
FDL
ODbL
GPL-3.0
BSD 3 Điều khoản
-
Thuật ngữ “truy cập mở” mang ý nghĩa gì?
Thuật ngữ này mô tả quyền truy cập miễn phí vào tài liệu khoa học và các nội dung khác trên Internet.
Đáp án Bài tập Mở rộng
-
Có giấy phép cụ thể nào dành cho phông chữ không?
Có, ví dụ như Giấy phép Phông chữ Mở SIL (OFL). Giấy phép này có chứa quyền copyleft dành riêng cho phông chữ, nhưng quyền này sẽ không có hiệu lực nếu phông chữ không bị thay đổi khi sử dụng.
-
Hãy giải thích ngắn gọn hai chiến lược hoặc mô hình truy cập mở.
Trong chiến lược truy cập mở “Vàng”, ấn phẩm sẽ được nhà xuất bản cung cấp trực tiếp theo giấy phép nội dung mở, thường (nhưng không luôn luôn) là sử dụng giấy phép Tài sản Sáng tạo Công cộng.
Mô hình truy cập mở “Xanh” được áp dụng khi nhà xuất bản không phân phối ấn phẩm theo quyền truy cập mở, nhưng tác giả lại được trao cơ hội cung cấp ấn phẩm để tải xuống (chẳng hạn như trên trang web của họ) theo một giấy phép mở.
-
“Định nghĩa mở” có nghĩa là gì?
“Định nghĩa mở” được xây dựng bởi Tổ chức Tri thức Mở là một cách hiểu chung về thuật ngữ “mở” trong “dữ liệu mở”, “kiến thức mở” và “nội dung mở”. Định nghĩa này mô tả cụ thể các quyền tự do cơ bản phải được cấp nếu một giấy phép được coi là “mở” theo đúng định nghĩa. Những quyền này bao gồm quyền truy cập, sử dụng, chỉnh sửa hoặc sửa đổi và chia sẻ.