109.2 Bài 1
Chứng chỉ: |
LPIC-1 |
---|---|
Phiên bản: |
5.0 |
Chủ đề: |
109 Những yếu tố cơ bản về Mạng |
Mục tiêu: |
109.2 Cấu hình Mạng liên tục |
Bài: |
1 trên 2 |
Giới thiệu
Trong bất kỳ một mạng TCP/IP nào, mọi nút đều phải định cấu hình bộ điều hợp mạng của nó để phù hợp với yêu cầu của mạng; nếu không, chúng sẽ không thể giao tiếp với nhau. Do đó, quản trị viên hệ thống phải cung cấp cấu hình cơ bản để hệ điều hành có thể thiết lập giao diện mạng phù hợp cũng như nhận dạng chính nó và các tính năng cơ bản của mạng mỗi khi khởi động.
Cài đặt mạng không liên quan đến hệ điều hành nhưng hệ điều hành có phương pháp riêng của nó để lưu trữ và áp dụng các cài đặt này. Các hệ thống Linux dựa vào các cấu hình được lưu trữ trong các tệp văn bản thuần túy ở thư mục /etc
để hiển thị kết nối mạng trong thời gian khởi động. Điều chúng ta cần biết là các tệp này được sử dụng như thế nào để tránh mất kết nối do sai cấu hình cục bộ.
Giao diện Mạng
Giao diện mạng là thuật ngữ mà hệ điều hành dùng để chỉ kênh giao tiếp được định cấu hình để hoạt động với phần cứng mạng được gắn vào hệ thống (chẳng hạn như thiết bị ethernet hoặc wi-fi). Ngoại lệ cho điều này là giao diện lặp vòng (loopback) - một giao diện mà hệ điều hành sẽ sử dụng khi cần thiết lập kết nối với chính nó. Mục đích chính của giao diện mạng là cung cấp một tuyến đường để qua đó, dữ liệu cục bộ có thể được gửi cũng như có thể nhận được dữ liệu từ xa. Nếu giao diện mạng được cấu hình sai cách, hệ điều hành sẽ không thể giao tiếp với các máy khác trong mạng.
Trong hầu hết các trường hợp, cài đặt giao diện chính xác sẽ được xác định theo mặc định hoặc được tùy chỉnh trong quá trình cài đặt hệ điều hành. Tuy nhiên, những cài đặt này thường cần được kiểm tra hoặc thậm chí là sửa đổi khi quá trình giao tiếp hoạt động không bình thường hoặc khi hoạt động của giao diện cần được tùy chỉnh.
Có nhiều lệnh Linux để liệt kê các giao diện mạng nào hiện có trên hệ thống, nhưng không phải tất cả các lệnh này đều có sẵn trong mọi bản phân phối. Tuy nhiên, lệnh ip
là một phần của bộ công cụ mạng cơ bản đi kèm với tất cả các bản phân phối Linux và có thể được sử dụng để liệt kê các giao diện mạng. Lệnh hoàn chỉnh để hiển thị các giao diện là ip link show
:
$ ip link show 1: lo: <LOOPBACK,UP,LOWER_UP> mtu 65536 qdisc noqueue state UNKNOWN mode DEFAULT group default qlen 1000 link/loopback 00:00:00:00:00:00 brd 00:00:00:00:00:00 2: enp3s5: <BROADCAST,MULTICAST,UP,LOWER_UP> mtu 1500 qdisc fq_codel state UP mode DEFAULT group default qlen 1000 link/ether 00:16:3e:8d:2b:5b brd ff:ff:ff:ff:ff:ff
Nếu có, lệnh nmcli device
cũng có thể được sử dụng:
$ nmcli device DEVICE TYPE STATE CONNECTION enp3s5 ethernet connected Gigabit Powerline Adapter lo loopback unmanaged --
Các lệnh hiển thị trong các ví dụ không sửa đổi bất kỳ cài đặt nào trong hệ thống; do đó, chúng có thể được thực thi bởi người dùng không có đặc quyền. Cả hai lệnh đều liệt kê hai giao diện mạng: lo
(giao diện lặp vòng) và enp3s5
(giao diện ethernet).
Máy tính để bàn và máy tính xách tay chạy Linux thường có hai hoặc ba giao diện mạng được xác định trước: một giao diện cho giao diện ảo lặp vòng và các giao diện còn lại được gán cho phần cứng mạng được hệ thống tìm thấy. Mặt khác, máy chủ và thiết bị mạng chạy Linux có thể có hàng chục giao diện mạng, nhưng các nguyên tắc giống nhau đều được áp dụng cho tất cả các giao diện này. Tính trừu tượng do hệ điều hành cung cấp cho phép thiết lập giao diện mạng thông qua các phương pháp giống nhau bất kể phần cứng cơ bản là gì.
Tuy nhiên, việc nắm vững một cách chi tiết về phần cứng cơ bản của giao diện có thể sẽ hữu ích trong việc hiểu rõ hơn điều gì đang xảy ra khi giao tiếp không hoạt động được như mong đợi. Chẳng hạn như trong một hệ thống có sẵn nhiều giao diện mạng, chúng ta không thể biết rõ giao diện nào tương ứng với wi-fi và giao diện nào tương ứng với ethernet. Vì lý do này, Linux sử dụng quy ước đặt tên giao diện để giúp xác định giao diện mạng nào tương ứng với thiết bị và cổng nào.
Tên Giao diện
Các bản phân phối Linux cũ hơn có tên giao diện mạng ethernet là eth0
, eth1
, v.v., được đánh số theo thứ tự mà hạt nhân xác định các thiết bị. Các giao diện không dây được đặt tên là wlan0
, wlan1
, v.v. Tuy nhiên, quy ước đặt tên này không làm rõ được một số vấn đề như cổng ethernet cụ thể nào sẽ phù hợp với giao diện eth0
. Tùy thuộc vào cách phát hiện phần cứng, thậm chí hai giao diện mạng cũng có thể đổi tên cho nhau sau khi khởi động lại.
Để khắc phục sự mơ hồ này, các hệ thống Linux gần đây đã sử dụng quy ước đặt tên có thể dự đoán được cho các giao diện mạng và tạo nên một mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa tên giao diện và kết nối phần cứng cơ bản.
Trong các bản phân phối Linux sử dụng cơ chế đặt tên systemd, tất cả các tên giao diện đều bắt đầu bằng tiền tố gồm hai ký tự biểu thị loại giao diện:
en
-
Ethernet
ib
-
InfiniBand
sl
-
Giao thức Internet đường dây nối tiếp (slip)
wl
-
Mạng không dây cục bộ (WLAN)
ww
-
Mạng không dây diện rộng (WWAN)
Từ mức độ ưu tiên cao hơn đến thấp hơn, hệ điều hành sử dụng các quy tắc sau để đặt tên và đánh số các giao diện mạng:
-
Đặt tên giao diện theo chỉ mục do BIOS hoặc chương trình cơ sở của thiết bị nhúng cung cấp (ví dụ:
eno1
). -
Đặt tên giao diện theo chỉ mục khe cắm PCI express như được cung cấp bởi BIOS hoặc chương trình cơ sở (ví dụ:
ens1
). -
Đặt tên giao diện theo địa chỉ của nó tại cổng bus tương ứng (ví dụ:
enp3s5
). -
Đặt tên giao diện theo địa chỉ MAC của giao diện (ví dụ:
enx78e7d1ea46da
). -
Đặt tên cho giao diện bằng cách sử dụng quy ước cũ (ví dụ:
eth0
).
Chúng ta hoàn toàn có thể giả định rằng giao diện mạng enp3s5
được đặt tên như vậy vì nó không phù hợp với hai phương thức đặt tên đầu tiên; do đó, địa chỉ của nó trong cổng bus và khe cắm tương ứng đã được sử dụng thay thế. Địa chỉ thiết bị 03:05.0
được tìm thấy trong đầu ra của lệnh lspci
đã cho biết thiết bị liên kết:
$ lspci | fgrep Ethernet 03:05.0 Ethernet controller: Realtek Semiconductor Co., Ltd. RTL-8110SC/8169SC Gigabit Ethernet (rev 10)
Giao diện mạng được tạo bởi chính nhân Linux nhưng có nhiều lệnh có thể được sử dụng để tương tác với chúng. Thông thường, quá trình cấu hình sẽ diễn ra tự động và không cần thay đổi cài đặt theo cách thủ công. Tuy nhiên, với tên của giao diện, chúng ta có thể cho hạt nhân biết cách tiến hành cấu hình nó nếu cần.
Quản lý Giao diện
Qua nhiều năm, một số chương trình đã được phát triển để tương tác với các tính năng mạng do nhân Linux cung cấp. Lệnh ifconfig
cũ vẫn có thể được sử dụng để thực hiện các truy vấn và cấu hình giao diện đơn giản nhưng hiện tại nó không còn được sử dụng nữa do khả năng hỗ trợ hạn chế đối với các giao diện không phải ethernet. Lệnh ifconfig
được thay thế bằng lệnh ip
có khả năng quản lý nhiều khía cạnh khác của giao diện TCP/IP như các tuyến và đường hầm.
Các khả năng đa dạng của lệnh ip
có thể là vượt quá mức cần thiết đối với hầu hết các tác vụ thông thường. Do đó, chúng ta còn có các lệnh phụ trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kích hoạt và cấu hình các giao diện mạng. Các lệnh ifup
và ifdown
có thể được sử dụng để định cấu hình giao diện mạng dựa trên các định nghĩa giao diện được tìm thấy trong tệp /etc/network/interfaces
. Mặc dù cũng có thể được gọi theo cách thủ công nhưng các lệnh này thường được thực thi tự động trong quá trình khởi động hệ thống.
Tất cả các giao diện mạng được quản lý bởi ifup
và ifdown
phải được liệt kê trong tệp /etc/network/interfaces
. Định dạng được sử dụng trong tệp rất đơn giản: các dòng bắt đầu bằng từ auto
được sử dụng để xác định các giao diện vật lý được hiển thị khi ifup
được thực thi với tùy chọn -a
. Tên giao diện phải theo sau từ auto
trên cùng một dòng. Tất cả các giao diện được đánh dấu auto
đều sẽ được hiển thị khi khởi động theo thứ tự được liệt kê.
Warning
|
Các phương thức cấu hình mạng được |
Cấu hình giao diện thực tế được viết bằng một dòng khác bắt đầu bằng từ iface
, theo sau là tên giao diện, tên của họ địa chỉ mà giao diện sử dụng và tên của phương thức được sử dụng để định cấu hình giao diện. Ví dụ sau đây cho thấy một tệp cấu hình cơ bản cho giao diện lo
(loopback) và enp3s5
:
auto lo iface lo inet loopback auto enp3s5 iface enp3s5 inet dhcp
Họ địa chỉ phải là inet
cho mạng TCP/IP nhưng mạng IPX (ipx
) và mạng IPv6 (inet6
) cũng được hỗ trợ. Giao diện lặp vòng sử dụng phương thức cấu hình loopback
. Với phương thức dhcp
, giao diện sẽ sử dụng cài đặt IP do máy chủ DHCP của mạng cung cấp. Các cài đặt từ cấu hình ví dụ sẽ cho phép thực thi lệnh ifup
bằng cách sử dụng tên giao diện enp3s5
làm đối số:
# ifup enp3s5 Internet Systems Consortium DHCP Client 4.4.1 Copyright 2004-2018 Internet Systems Consortium. All rights reserved. For info, please visit https://www.isc.org/software/dhcp/ Listening on LPF/enp3s5/00:16:3e:8d:2b:5b Sending on LPF/enp3s5/00:16:3e:8d:2b:5b Sending on Socket/fallback DHCPDISCOVER on enp3s5 to 255.255.255.255 port 67 interval 4 DHCPOFFER of 10.90.170.158 from 10.90.170.1 DHCPREQUEST for 10.90.170.158 on enp3s5 to 255.255.255.255 port 67 DHCPACK of 10.90.170.158 from 10.90.170.1 bound to 10.90.170.158 -- renewal in 1616 seconds.
Trong ví dụ này, phương thức được chọn cho giao diện enp3s5
là dhcp
; vì vậy, lệnh ifup
đã gọi chương trình máy khách DHCP để lấy cài đặt IP từ máy chủ DHCP. Tương tự, lệnh ifdown enp3s5
có thể được sử dụng để tắt giao diện.
Trong các mạng không có máy chủ DHCP, phương pháp static
có thể được sử dụng thay thế và cài đặt IP được cung cấp thủ công trong /etc/network/interfaces
. Ví dụ:
iface enp3s5 inet static address 192.168.1.2/24 gateway 192.168.1.1
Các giao diện sử dụng phương thức static
không cần lệnh auto
tương ứng vì chúng sẽ được hiển thị bất cứ khi nào phát hiện thấy phần cứng mạng.
Nếu cùng một giao diện có nhiều mục nhập iface
thì tất cả các địa chỉ và tùy chọn đã định cấu hình sẽ được áp dụng khi hiển thị giao diện đó. Điều này rất hữu ích trong việc định cấu hình cả địa chỉ IPv4 và IPv6 trên cùng một giao diện cũng như định cấu hình nhiều địa chỉ cùng loại trên một giao diện.
Tên cục bộ và Tên kết nối từ xa
Một thiết lập TCP/IP khả dụng chỉ là bước đầu tiên hướng tới khả năng sử dụng toàn bộ mạng. Ngoài việc có thể xác định các nút trên mạng bằng số IP của chúng, hệ thống phải có khả năng xác định chúng bằng những tên mà con người có thể hiểu một cách dễ dàng hơn.
Tên mà hệ thống tự nhận dạng có thể tùy chỉnh được và chúng ta nên xác định tên đó ngay cả khi máy không có ý định tham gia mạng. Tên cục bộ thường trùng với tên mạng của máy nhưng điều này không nhất thiết lúc nào cũng đúng. Nếu tệp /etc/hostname
tồn tại, hệ điều hành sẽ sử dụng nội dung của dòng đầu tiên làm tên cục bộ của nó, sau đó nó sẽ được gọi đơn giản là hostname (tên máy chủ). Các dòng bắt đầu bằng #
bên trong /etc/hostname
sẽ bị bỏ qua.
Tệp /etc/hostname
có thể được chỉnh sửa trực tiếp nhưng tên máy chủ của máy cũng có thể được xác định bằng lệnh hostnamectl
. Khi được cung cấp lệnh phụ set-hostname
, lệnh hostnamectl
sẽ lấy tên được cung cấp làm đối số và ghi nó vào /etc/hostname
:
# hostnamectl set-hostname storage # cat /etc/hostname storage
Tên máy chủ được xác định trong /etc/hostname
là tên máy chủ tĩnh - tức là tên được sử dụng để khởi tạo tên máy chủ của hệ thống khi khởi động. Tên máy chủ tĩnh có thể là một chuỗi dạng tự do có độ dài tối đa 64 ký tự. Tuy nhiên, khuyến nghị dành cho người dùng là nó chỉ nên bao gồm các ký tự chữ thường ASCII và không có dấu cách hoặc dấu chấm. Nó cũng nên giới hạn ở định dạng được phép cho nhãn tên miền DNS (mặc dù đây không phải là một yêu cầu nghiêm ngặt).
Lệnh hostnamectl
có thể đặt hai loại tên máy chủ khác ngoài tên máy chủ tĩnh:
- Tên máy chủ thân thiện (pretty)
-
Không giống như tên máy chủ tĩnh, tên máy chủ thân thiện có thể bao gồm tất cả các loại ký tự đặc biệt. Nó có thể được sử dụng để đặt tên mô tả nhiều hơn cho máy, ví dụ như “LAN Shared Storage”:
# hostnamectl --pretty set-hostname "LAN Shared Storage"
- Tên máy chủ tạm thời (transient)
-
Được sử dụng khi tên máy chủ tĩnh không được đặt hoặc được để mặc định là
localhost
. Tên máy chủ tạm thời thường là tên được đặt cùng với các cấu hình tự động khác, nhưng nó cũng có thể được sửa đổi bằng lệnhhostnamectl
. Ví dụ:# hostnamectl --transient set-hostname generic-host
Nếu cả tùy chọn --pretty
hay --transient
đều không được sử dụng thì cả ba loại tên máy chủ sẽ được đặt thành tên đã cho. Để đặt tên máy chủ tĩnh (chứ không phải tên thân thiện và tạm thời), chúng ta nên sử dụng tùy chọn --static
. Trong mọi trường hợp, chỉ tên máy chủ tĩnh mới được lưu trữ trong tệp /etc/hostname
. Lệnh hostnamectl
cũng có thể được sử dụng để hiển thị các thông tin mô tả và nhận dạng khác nhau về hệ thống đang chạy:
$ hostnamectl status Static hostname: storage Pretty hostname: LAN Shared Storage Transient hostname: generic-host Icon name: computer-server Chassis: server Machine ID: d91962a957f749bbaf16da3c9c86e093 Boot ID: 8c11dcab9c3d4f5aa53f4f4e8fdc6318 Operating System: Debian GNU/Linux 10 (buster) Kernel: Linux 4.19.0-8-amd64 Architecture: x86-64
Đây là hành động mặc định của lệnh hostnamectl
nên lệnh phụ status
có thể được bỏ qua.
Về tên của các nút mạng từ xa, có hai cách cơ bản mà hệ điều hành có thể thực hiện để khớp tên và số IP: sử dụng nguồn cục bộ hoặc sử dụng máy chủ từ xa để dịch tên thành số IP và ngược lại. Các phương thức có thể bổ sung cho nhau và thứ tự ưu tiên của chúng sẽ được xác định trong tệp cấu hình Name Service Switch (Chuyển đổi dịch vụ tên): /etc/nsswitch.conf
. Tệp này sẽ được hệ thống và ứng dụng sử dụng để xác định không chỉ các nguồn trùng khớp tên IP mà còn cả các nguồn để lấy thông tin dịch vụ tên trong một loạt danh mục được gọi là cơ sở dữ liệu.
Cơ sở dữ liệu các máy chủ sẽ theo dõi ánh xạ giữa tên máy chủ và số hiệu máy chủ. Dòng bên trong /etc/nsswitch.conf
bắt đầu bằng hosts
sẽ xác định các dịch vụ chịu trách nhiệm cung cấp các liên kết cho nó:
hosts: files dns
Trong mục ví dụ này, files
và dns
là tên dịch vụ chỉ định cách hoạt động của quá trình tra cứu tên máy chủ. Đầu tiên, hệ thống sẽ tìm kiếm các kết quả trùng khớp trong các tệp cục bộ; sau đó, nó sẽ yêu cầu dịch vụ DNS tìm các kết quả trùng khớp.
Tệp cục bộ dành cho cơ sở dữ liệu máy chủ là /etc/hosts
- một tệp văn bản đơn giản liên kết địa chỉ IP với tên máy chủ, mỗi địa chỉ IP ở trên một dòng. Dưới đây là một ví dụ:
127.0.0.1 localhost
Số IP 127.0.0.1 là địa chỉ mặc định cho giao diện lặp vòng, do đó mà nó được liên kết với tên localhost.
Chúng ta cũng có thể liên kết các bí danh tùy chọn với cùng một IP. Bí danh cung cấp các cách viết khác hoặc tên máy chủ ngắn hơn và nên được thêm vào cuối dòng như sau:
192.168.1.10 foo.mydomain.org foo
Các quy tắc định dạng cho tệp /etc/hosts
là:
-
Các trường của mục nhập được phân tách bằng số lượng khoảng trống và/hoặc ký tự tab bất kỳ.
-
Phần văn bản từ ký tự
#
cho đến cuối dòng là một chú thích và sẽ bị bỏ qua. -
Tên máy chủ chỉ có thể chứa các ký tự chữ, số, dấu trừ và dấu chấm.
-
Tên máy chủ phải bắt đầu bằng một ký tự chữ cái và kết thúc bằng một ký tự chữ hoặc số.
Địa chỉ IPv6 cũng có thể được thêm vào /etc/hosts
. Mục sau đây ám chỉ địa chỉ lặp vòng IPv6:
::1 localhost ip6-localhost ip6-loopback
Theo đặc tả dịch vụ files
, đặc tả dns
sẽ khiến hệ thống yêu cầu một dịch vụ DNS để có được liên kết tên/IP như mong muốn. Tập hợp các thủ tục chịu trách nhiệm cho phương thức này được gọi là trình phân giải (resolver) và tệp cấu hình của nó là /etc/resolv.conf
. Ví dụ sau đây sẽ cho thấy một /etc/resolv.conf
chung chứa các mục nhập cho máy chủ DNS công cộng của Google:
nameserver 8.8.4.4 nameserver 8.8.8.8
Như trong ví dụ, từ khóa nameserver
cho biết địa chỉ IP của máy chủ DNS. Thực tế chỉ cần một máy chủ tên miền nhưng chúng ta cũng có thể có tối đa ba máy chủ. Những máy chủ tên miền bổ sung sẽ được sử dụng như một phương án dự phòng. Nếu không có mục nhập máy chủ tên miền nào, hành vi mặc định sẽ là sử dụng máy chủ tên miền trên máy cục bộ.
Trình phân giải có thể được cấu hình để tự động thêm miền vào tên trước khi tham khảo chúng trên máy chủ tên miền. Ví dụ:
nameserver 8.8.4.4 nameserver 8.8.8.8 domain mydomain.org search mydomain.net mydomain.com
Mục nhập domain
sẽ đặt mydomain.org
làm tên miền cục bộ; vì vậy, các truy vấn tên trong miền này sẽ được phép sử dụng các tên ngắn liên quan đến miền cục bộ. Mục search
cũng có mục đích tương tự nhưng nó sẽ chấp nhận một danh sách các miền để thử khi một tên ngắn được cung cấp. Theo mặc định, nó sẽ chỉ chứa tên miền cục bộ.
Bài tập Hướng dẫn
-
Những lệnh nào có thể được sử dụng để liệt kê các bộ điều hợp mạng có trong hệ thống?
-
Bộ điều hợp mạng với tên giao diện là
wlo1
thuộc loại gì? -
Tệp
/etc/network/interfaces
đóng vai trò gì trong quá trình khởi động? -
Mục nào trong
/etc/network/interfaces
sẽ cấu hình giao diệneno1
để nhận cài đặt IP của nó bằng DHCP?
Bài tập Mở rộng
-
Làm thế nào mà lệnh
hostnamectl
có thể được sử dụng để chỉ thay đổi tên máy chủ tĩnh của máy cục bộ thànhfirewall
? -
Những chi tiết nào ngoài tên máy chủ có thể được sửa đổi bằng lệnh
hostnamectl
? -
Mục nào trong
/etc/hosts
sẽ liên kết cả hai tênfirewall
vàrouter
với IP10.8.0.1
? -
Làm cách nào để có thể sửa đổi tệp
/etc/resolv.conf
để gửi tất cả các yêu cầu DNS đến1.1.1.1
?
Tóm tắt
Bài học này đã trình bày cách thực hiện các thay đổi bền vững với cấu hình mạng cục bộ bằng cách sử dụng các tệp và lệnh Linux tiêu chuẩn. Linux luôn giả định các cài đặt TCP/IP sẽ ở những vị trí cụ thể và người dùng có thể sẽ cần thay đổi chúng khi cài đặt mặc định không phù hợp. Bài học đã đi qua các chủ đề sau:
-
Cách Linux xác định các giao diện mạng.
-
Kích hoạt giao diện trong quá trình khởi động và cấu hình IP cơ bản.
-
Cách hệ điều hành liên kết tên với máy chủ.
Các khái niệm, lệnh và quy trình đã được giải quyết là:
-
Quy ước đặt tên giao diện.
-
Liệt kê các giao diện mạng với
ip
vànmcli
. -
Kích hoạt giao diện với
ifup
vàifdown
. -
Lệnh
hostnamectl
và tệp/etc/hostname
. -
Các tệp
/etc/nsswitch.conf
,/etc/hosts
và/etc/resolv.conf
.
Đáp án Bài tập Hướng dẫn
-
Những lệnh nào có thể được sử dụng để liệt kê các bộ điều hợp mạng có trong hệ thống?
Các lệnh
ip link show
,nmcli device
vàifconfig
kế thừa. -
Bộ điều hợp mạng với tên giao diện là
wlo1
thuộc loại gì?Vì có tên được bắt đầu bằng
wl
nên nó là một bộ điều hợp mạng LAN không dây. -
Tệp
/etc/network/interfaces
đóng vai trò gì trong quá trình khởi động?Nó có các cấu hình được sử dụng bởi lệnh
ifup
để kích hoạt các giao diện tương ứng trong thời gian khởi động. -
Mục nào trong
/etc/network/interfaces
sẽ cấu hình giao diệneno1
để nhận cài đặt IP của nó bằng DHCP?Dòng
iface eno1 inet dhcp
.
Đáp án Bài tập Mở rộng
-
Làm thế nào mà lệnh
hostnamectl
có thể được sử dụng để chỉ thay đổi tên máy chủ tĩnh của máy cục bộ thànhfirewall
?Với tùy chọn
--static
:hostnamectl --static set-hostname fire
. -
Những chi tiết nào ngoài tên máy chủ có thể được sửa đổi bằng lệnh
hostnamectl
?hostnamectl
cũng có thể đặt biểu tượng mặc định cho máy cục bộ, loại khung máy, vị trí và môi trường triển khai. -
Mục nào trong
/etc/hosts
sẽ liên kết cả hai tênfirewall
vàrouter
với IP10.8.0.1
?Dòng
10.8.0.1 firewall router
. -
Làm cách nào để có thể sửa đổi tệp
/etc/resolv.conf
để gửi tất cả các yêu cầu DNS đến1.1.1.1
?Sử dụng
nameserver 1.1.1.1
làm mục nhập máy chủ tên miền duy nhất.